Thứ Tư, 24 tháng 5, 2017

ISO 9001 và ISO 14001 phiên bản 2015 chính thức được ban hành

Phiên bản mới nhất của ISO 9001, tiêu chuẩn tiên phong về hệ thống quản lý chất lượng vừa được ban hành vào ngày 23/9/2015. Đây là kết quả hơn ba năm rà soát của các chuyên gia từ gần 95 quốc gia thành viên và quan sát viên để cập nhật tiêu chuẩn cho phù hợp với các nhu cầu hiện tại.

Với hơn 1,1 triệu chứng chỉ được cấp trên toàn cầu, ISO 9001 đã giúp các tổ chức chứng tỏ với khách hàng rằng họ có thể cung cấp sản phẩm và dịch vụ với chất lượng tốt ổn định. Tiêu chuẩn cũng là công cụ để hợp lý hóa và nâng cao hiệu quả các quá trình được thực thi. ISO 9001 cho phép các tổ chức thích nghi với một thế giới đang đổi thay trong thế kỷ 21. Tiêu chuẩn tăng cường khả năng của tổ chức thỏa mãn khách hàng và cung cấp cơ sở vững chắc cho sự phát triển và thành công bền vững.

Các phiên bản đầu của ISO 9001 thiên về quy tắc, có nhiều yêu cầu về quy trình văn bản và hồ sơ. Các phiên bản 2000 và 2008 đã tập trung nhiều hơn vào quản lý quá trình và ít hơn về tài liệu. Nhưng ISO 9001: 2015 thậm chí ít quy tắc hơn các phiên bản trước, thay vào đó sự tập trung hướng vào kết quả thực hiện. (http://vietcert.org/chung-nhan-iso-9001/c1040000)

Điều này đạt được bằng kết hợp tiếp cận theo quá trình với tư duy theo rủi ro và áp dụng vòng tròn PDCA vào tất cả các cấp của tổ chức.

Phiên bản 2015 cũng được thiết kế để dễ dàng tích hợp với các hệ thống quản lý khác. Xu hướng về các chuỗi cung ứng quy mô toàn cầu ngày càng rõ rệt, vì vậy các tổ chức có nhu cầu vận hành theo những phương thức mới và các tiêu chuẩn quản lý chất lượng cần phải đáp ứng được những kỳ vọng đó.

ISO 9001: 2015 thay thế các phiên bản trước và các tổ chức sẽ có tối đa ba năm để chuyển đổi sang phiên bản mới. Tiêu chuẩn ISO 9000: 2015, bao gồm các khái niệm và thuật ngữ sử dụng trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000 cũng đã được chỉnh sửa và ban hành phiên bản mới. (http://vietcert.org/chung-nhan-iso-9001/c1040000).

Trước đó vào ngày 15/9/2015, phiên bản mới của Tiêu chuẩn về Hệ thống quản lý môi trường ISO 14001: 2015, một tiêu chuẩn rất phổ biến khác, đã được Tổ chức ISO chính thức ban hành.

Trung tâm Giám định và Chứng nhận hợp chuẩn hợp quy VietCert là đơn vị cung cấp dịch vụ chứng nhận các hê thống quản lý theo các tiêu chuẩn quốc tế. 

Bên cạnh đó, VietCert còn hỗ trợ, giải đáp các vấn đề liên quan tới cập nhật phiên bản mới; cung cấp dịch vụ chứng nhận hệ thống theo ISO 9001: 2015, ISO 14001: 2015 và các tiêu chuẩn ISO khác.

Download tiêu chuẩn ISO 9001:2015, ISO 14001:2015 tại đây.

Thứ Ba, 23 tháng 5, 2017

Nhận diện rủi ro (Identify Risks)

Chứng nhận ISO 9001:2015
Nhận diện rủi ro là quy trình quyết định những rủi ro nào có thể ảnh hưởng đến dự án và tài liệu hóa các đặc điểm của chúng. Lợi ích chính là quy trình này là tài liệu về các rủi ro tồn tại, kiến thức, và khả năng giúp đội dự án biết trước những sự cố.
Nhận diện rủi ro liên quan đến việc nhận diện các rủi ro có thể ảnh hưởng đến dự án và tài liệu hóa đặc điểm của chúng.
Những người tham gia trong việc nhận diện rủi ro nói chung có thể bao gồm những người sau đây: đội dự án, đội quản lý rủi ro, chuyên gia vấn đề từ các bộ phận khác của công ty, khách hàng, người dùng cuối, những người quản lý dự án khác, các bên liên quan, và các chuyên gia từ bên ngoài.
Nhận diện rủi ro là một quá trình lặp đi lặp lại. Phiên đầu tiên có thể được thực hiện bởi một phần của đội dự án, hoặc bởi đội quản lý rủi ro. Toàn bộ đội dự án và các bên liên quan chính có thể thực hiện phiên lặp thứ hai. Để đạt được một phân tích khách quan, những người không tham gia vào dự án có thể thực hiện phiên lặp cuối cùng.
Phát triển các ứng phó rủi ro thường đơn giản và hiệu quả và thậm chí có thể thực hiện được khi các rủi ro được nhận diện.
11.2.1 Các đầu vào của nhận diện rủi ro 
1. kế hoạch quản lý rủi ro.

Được mô tả trong mục 11.1.3.1. Vai trò của các yếu tố chính của kế hoạch quản lý rủi ro trong quy trình nhận diện rủi ro là đưa ra vai trò và trách nhiệm, các điều khoản cho các hoạt động quản lý rủi ro trong ngân sách và lịch trình, và các loại rủi ro, đôi khi được thể hiện như là một cấu trúc phân rã rủi ro (Hình 11-4).
2. Đầu ra kế hoạch dự án . 
Nhận diện rủi ro đòi hỏi sự hiểu biết về nhiệm vụ, phạm vi dự án và mục tiêu của chủ dự án, nhà tài trợ, hoặc các bên liên quan. Đầu ra của các quy trình khác cần được xem xét để nhận diện rủi ro trên toàn bộ dự án. Đầu ra dự án có thể bao gồm, nhưng không giới hạn:

  • Hợp đồng dự án.
  • WBS.
  • Mô tả Sản phẩm.
  • Lịch trình và ước tính chi phí.
  • Kế hoạch tài nguyên.
  • Kế hoạch đấu thầu.
  • Giả thiết và danh sách ràng buộc.
3. Phân loại rủi ro. 
Mức độ ảnh hưởng của rủi ro đến dự án được xác định và tổ chức thành các loại rủi ro. Loại rủi ro cần được nhận diện rõ ràng và phải phản ánh các nguồn phổ biến của các rủi ro đối với các lĩnh vực ứng dụng hay kinh doanh. Các loại rủi ro bao gồm những điều sau đây:

  • Rủi ro về kỹ thuật, chất lượng, hoặc hiệu suất - chẳng hạn như độ tin cậy về công nghệ phức tạp hoặc chưa được chứng thực, các mục tiêu về hiệu suất phi thực tế thay đổi theo công nghệ được sử dụng hoặc theo tiêu chuẩn kinh doanh của dự án.
  • Rủi ro về quản lý dự án - chẳng hạn như phân bổ kém về thời gian và nguồn lực, sự yếu kém về chất lượng của kế hoạch dự án, yếu kém trong sử dụng các hình phạt quản lý dự án.
  • Rủi ro về tổ chức - chẳng hạn như các mục tiêu về chi phí, thời gian và phạm vi không phù hợp trong nội bộ, thiếu sự ưu tiên cho các dự án, thiếu kinh phí hoặc kinh phí bị gián đoạn, và xung đột tài nguyên với các dự án khác trong tổ chức.
  • Rủi ro bên ngoài - chẳng hạn như chuyển đổi môi trường pháp lý hoặc quy định, vấn đề lao động, thay đổi các ưu tiên của chủ dự án, rủi ro về lĩnh vực, và thời tiết. Các rủi ro bất khả kháng như động đất, lũ lụt và tình trạng bất ổn dân sự thường yêu cầu hành động khắc phục thảm họa hơn là quản lý rủi ro.
4. Thông tin lịch sử.
Thông tin có sẵn từ trước từ các nguồn sau đây:
  • Các file dự án – một hoặc nhiều tổ chức tham gia vào các dự án có thể duy trì hồ sơ các kết quả dự án trước đó có thể được sử dụng để nhận diện các rủi ro. Đây có thể là báo cáo cuối cùng của dự án hoặc kế hoạch ứng phó rủi ro. Chúng có thể bao gồm những kinh nghiệm được tổ chức mô tả các vấn đề và giải pháp của chúng, hoặc có sẵn thông qua kinh nghiệm của các bên liên quan dự án hoặc những người khác trong tổ chức.
  • Thông tin công khai – các cơ sở dữ liệu thương mại, các nghiên cứu, tiêu chuẩn, và các nghiên cứu được công bố khác có thể có sẵn cho nhiều lĩnh vực ứng dụng.
11.2.2 Công cụ và kỹ thuật nhận diện rủi ro
11.2.2.1 Xem xét tài liệu

Thực hiện xem xét cấu trúc của các kế hoạch và các giả thiết dự án, cả mức phạm vi tổng thể và chi tiết của dự án, các tập tin dự án trước, và các thông tin khác thường là bước ban đầu được thực hiện bởi đội dự án.
11.2.2.2. Kỹ thuật thu thập thông tin
Ví dụ về các kỹ thuật thu thập thông tin sử dụng trong việc nhận diện rủi ro có thể bao gồm động não; Delphi; phỏng vấn; và phân tích nguyên nhân ban đầu.
  • Động não . Động não có lẽ là kỹ thuật nhận diện rủi ro được sử dụng thường xuyên nhất. Mục đích là để có được một danh sách toàn diện để có thể được giải quyết sau đó trong quá trình phân tích rủi ro định tính và định lượng. Đội dự án thường xuyên thực hiện động não, mặc dù một nhóm các chuyên gia đa ngành có thể thực hiện kỹ thuật này. Dưới sự lãnh đạo của một người điều hành, những người khác đưa ra những ý tưởng về rủi ro của dự án. Nguồn gốc rủi ro được nhận diện trong phạm vi rộng và gửi cho tất cả để xem xét trong cuộc họp. Rủi ro này sau đó được phân loại, và định nghĩa của chúng được đưa ra chính xác hơn.
  • Kỹ thuật Delphi. Kỹ thuật Delphi là một cách để đạt được một sự đồng thuận của các chuyên gia về một chủ đề như rủi ro của dự án. Các chuyên gia rủi ro dự án được xác định nhưng tham gia ẩn danh. Người điều hành sử dụng một bảng câu hỏi để thu thập ý tưởng về các rủi ro quan trọng của dự án. Các câu trả lời được tổng hợp lại và sau đó được chuyển tới các chuyên gia để thảo luận thêm. Sự đồng thuận về những rủi ro chính của dự án có thể đạt được trong một vòng của quy trình này. Kỹ thuật Delphi giúp làm giảm sai lệch trong dữ liệu và tránh những ảnh hưởng không đáng có từ bất kỳ người nào đến kết quả.
  • Phỏng vấn . Rủi ro có thể được nhận diện bởi các cuộc phỏng vấn của các nhà quản lý dự án có kinh nghiệm hoặc chuyên gia chuyên đề. Người chịu trách nhiệm nhận diện rủi ro xác định các cá nhân thích hợp, mời họ tham gia dự án, và cung cấp thông tin như WBS và danh sách gồm rất nhiều các giả thiết. Người được phỏng vấn nhận diện rủi ro dự án dựa trên kinh nghiệm của họ, thông tin dự án, và các nguồn khác mà họ thấy hữu ích.
  • Phân tích nguyên nhân gốc. Phân tích nguyên nhân gốc là một kỹ thuật cụ thể được sử dụng để xác định một vấn đề, khám phá những nguyên nhân cơ bản dẫn đến nó, và phát triển hành động phòng ngừa.
11.2.2.3. Bảng kiểm
Các danh sách kiểm tra để nhận diện rủi ro có thể được phát triển dựa trên các thông tin lịch sử và kiến thức đã được tích lũy từ các dự án tương tự trước đây và từ các nguồn thông tin khác. Một lợi thế của việc sử dụng một danh sách kiểm tra là nhận diện rủi ro là nhanh chóng và đơn giản. Một nhược điểm là nó không thể xây dựng một danh sách kiểm tra đầy đủ các rủi ro, và người dùng có thể bị giới hạn hiệu quả ở những hạng mục trong danh sách. Nên cẩn thận để khám phá các mục không xuất hiện trên một danh sách kiểm tra tiêu chuẩn nếu chúng có thể có liên quan đến các dự án cụ thể. Danh sách kiểm tra cần ghi rõ từng mục tất cả các loại rủi ro có thể đối với dự án Việc rà soát lại danh sách kiểm tra như là một bước chính thức của mọi thủ tục kết thúc dự án là rất quan trọng nhằm cải thiện danh sách các rủi ro tiềm ẩn, và cải thiện các mô tả về rủi ro.
11.2.2.4. Phân tích các giả thiết.
Mỗi dự án được hình thành và phát triển dựa trên một tập hợp các giả thiết, kịch bản, hoặc giả định. Phân tích giả thiết là một kỹ thuật khám phá tính hợp lệ của các giả thiết. Nó nhận diện rủi ro đối với các dự án từ những giả thiết không chính xác, không thống nhất, hoặc không đầy đủ.
11.2.2.5. Kỹ thuật biểu đồ hóa.
Các kỹ thuật vẽ biểu đồ có thể bao gồm:
  • Các biểu đồ nguyên nhân và kết quả (cũng được biết như là biểu đồ Ishikawa hoặc xương cá ) – rất hữu ích để xác định nguyên nhân gây rủi ro (được mô tả trong mục 8.1.2.3 ).
  • Biểu đồ luồng quy trình hoặc hệ thống – chỉ ra cách các yếu tố khác nhau của một hệ thống tương tác với nhau và cơ chế nhân quả os (mô tả trong mục 8.1.2.3 ).
  • Các biểu đồ tác động -một đại diện đồ họa của một vấn đề hiển thị các tác động thông thường, trình tự thời gian của các sự kiện, và các mối quan hệ khác giữa các biến và kết quả.
11.2.2.6. Phân tích SWOT
Kỹ thuật này kiểm tra dự án từ mỗi điểm mạnh, điểm yếu, các cơ hội và các khía cạnh đe dọa (SWOT) để tăng bề rộng của các rủi ro nhận diện được bằng các rủi ro phát sinh nội bộ. Kỹ thuật bắt đầu với việc xác định các điểm mạnh và điểm yếu của tổ chức, tập trung vào cả dự án, tổ chức hay lĩnh vực kinh doanh nói chung. Phân tích SWOT sau đó định nghĩa bất kỳ cơ hội nào cho dự án có được từ những điểm mạnh của tổ chức và bất kỳ mối đe dọa phát sinh này từ điểm yếu của tổ chức. Phân tích cũng kiểm tra mức độ mà các điểm mạnh của tổ chức bù đắp cho các mối đe dọa, cũng như xác định các cơ hội để khắc phục điểm yếu.
11.2.2.7. Đánh giá của chuyên gia
Rủi ro có thể được nhận diện trực tiếp bởi các chuyên gia có kinh nghiệm phù hợp với các dự án hoặc các lĩnh vực kinh doanh tương ứng. Các chuyên gia này cần được xác định bởi người quản lý dự án và mời đến để xem xét tất cả các khía cạnh của dự án và đề xuất rủi ro có thể dựa vào kinh nghiệm và lĩnh vực chuyên môn của họ trước đó. Các đánh giá có tính chất thành kiến của các chuyên gia nên được đưa vào một bảng kê trong quá trình này.
11.2.3 Đầu ra của nhận diện rủi ro
11.2.3.1. rủi ro. Một rủi ro là một sự kiện hoặc một điều kiện không chắc chắn, mà nếu nó xảy ra, sẽ có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến mục tiêu dự án.
11.2.3.2. Triggers. Các trigger, đôi khi được gọi là các triệu chứng rủi ro hoặc các dấu hiệu cảnh báo, cho thấy một rủi ro hay hay sắp xảy ra một rủi ro. Ví dụ, không đáp ứng được những cột mốc trung gian có thể là một tín hiệu cảnh báo sớm của một sự chậm trễ tiến độ sắp xảy ra.
11.2.3.3. Đầu vào cho các quy trình khác. Nhận diện rủi ro có thể xác định một nhu cầu hành động sau này trong một lĩnh vực khác. Ví dụ, các WBS có thể không đủ chi tiết để cho phép nhận dạng đầy đủ về các rủi ro, hoặc lịch trình có thể không đầy đủ hay hoàn toàn hợp lý. 

Hiệu chuẩn phương tiện đo và vấn đề liên kết chuẩn

1. Khái niệm hiệu chuẩn phương tiện đo

Hiệu chuẩn (calibration) được định nghĩa là tập hợp các thao tác trong điều kiện quy định để thiết lập mối quan hệ giữa các giá trị được chỉ bởi phương tiện đo, hệ thống đo hoặc giá trị được thể hiện bằng vât đọ hoặc mẫu chuẩn và các giá trị tương ứng thể hiện bằng chuẩn. Kết quả hiệu chuẩn được ghi trong một tài liệu thùờng được gọi là giấy chứng nhận hiệu chuẩn hoặc thông báo hiệu chuẩn.
Xét về mặt kỹ thuật, bản chất của việc hiệu chuẩn chính là việc so sánh phương tiện đo với chuẩn để đánh giá sai số và các đặc trưng kỹ thuật, đo lường khác của nó
Hiệu chuẩn chính là biện pháp để truyền độ lớn của đơn vị clo lường từ chuẩn có độ chính xác cao nhất tới các phương tiện đo thông thường nhằm đảm bảo tính thống nhất và độ chính xác cần thiết của tất cả phương tiện đo.
2. Tính liên kết chuẩn
Một đặc trưng quan trọng của việc hiệu chuẩn là phải đảm bảo tính liên kết chuẩn của nó. Tính liên kết chuẩn được định nghĩa là tính chất của kết quả đo hoặc giá trị của một chuẩn mà nhờ đó có thể liên hệ tới các chuẩn đã định, thường là chuẩn quốc gia hay quốc tế thông qua một chuỗi so sánh không gian gián đoạn với những độ không đảm bảo xác định. Chuỗi so sánh không gián đoạn được gọi là chuỗi liên kết chuẩn.
Sơ đồ diễn tả bản chất của việc hiện chuẩn cũng đồng thời cho ta một hình ảnh cụ thể về tính liên kết chuẩn. Mọi phương tiên đo cũng như các chuẩn đều được đặt vào một mắt xích tương ứng trong chuỗi liên kết chuẩn. Kết quả cuối cùng là chúng đều được nối (so sánh) với chuẩn quốc gia trực tiếp hay gián tiếp.
3. Kiểm định phương tiện đo
Kiểm định (verifcation) được định nghĩa là toàn bộ các thao tác do một tổ chức của cơ quan quan lý Nhà nước về đo lường (hoặc một tổ chức được uỷ quyền về mặt pháp lý) tiến hành nhằm xác định và chứng nhận rằng phương tiện đo thoả mãn hoàn toàn các yêu cầu đã quy định.
Xét về mặt kỹ thuật. nội dung cơ bản cửa kiểm định và hiệu chuẩn là tương tự nhau. Đó là việc so sánh phương tiện đo với chuẩn để đánh giá sai số và các đặc trưng kỹ thuật, đo lường khác của nó. Nhưng kiểm định khác với hiệu chuẩn ở chỗ sau khi tiến hành các thao tác kỹ thuật còn phải đối chiếu kết quả thu được với các yêu cầu tuơng ứng đã được quy định để xem phương tiện đo có phù hợp hay không. Chỉ phương tiện đo đạt yêu cầu môi được cấp giấy chứng nhận kiểm định hoặc đóng (in, dán) dấu kiểm định lên phương tiện đo để xác nhận tính hợp pháp của nó trong sử dụng hoặc lưu thông; những phương tiện đo nào không đạt yêu cầu sẽ không được đưa vào lưu thông, sử dụng.
Như vậy kiểm định là biện pháp quản lý phương tiện đo được quy định bằng luật pháp của Nhà nước về đo lường, do cơ quan quản lý nhà nước về đo lường thực hiện và là bắt buộc đối với phương tiện đo nằm trong danh mục phải qua kiểm định, nhằm mục đích đảm bảo an toàn và quyền lợi chung cho mọi người, cho toàn xã hội.
Còn hiệu chuẩn là hoạt động, kỹ thuật cần thiết của mọi cơ sở sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu để biết được tình trạng của phương tiện đo trong quá trình sử dụng, bảo quản chúng, từ đó có biện pháp xử lý, hiệu chỉnh kịp thời phù hợp với mục tiêu sản xuất kinh doanh, nghiên cứu của mình.
4. Chọn chuẩn để hiệu chuẩn
Để đảm bảo tính kinh tế và độ tin cậy cần phải chọn chuẩn phù hợp vớt đối tượng và yêu cầu hiệu chuẩn. Thường sai số của chuẩn càng nhỏ so với sai số cho phép của đối ttiợng hiệu chuẩn thì kết quả càng tin cậy. Tuy nhiên nếu chọn chuẩn quá chính xác sẽ không cần thiết và không kinh tế. Vì vậy trong quá trình hiệu chuẩn thường phải chọn các tỷ số nhất định giữa sai số của chuẩn và sai số cho phép của đối tượng hiệu chuẩn sao cho thích hợp. Đối với từng loại phương tiện đo, tỷ số đó có thể là 1:3; 1:4; 1:5. Tỷ số 1:2 cũng có thể dùng với điều kiện sai số ngẫu nhiên của chuẩn và phương tiện đo cần hiệu chuẩn nhỏ không đáng kể, độ chính xác của chúng chủ yếu do sai số hệ thống quyết định.
Tuy nhiên, khi cần lập bảng số hiệu chính cho phương tiện đo thì cơ sở xem xét để chọn chuẩn sẽ không còn là sai số cho phép như đã nêu ở trên mà là độ chính xác đòi hỏi đối với số hiệu chính này.
Trường hợp chuẩn có bảng số hiêu chính kèm theo thì căn cứ để đánh giá và lựa chọn chuẩn sẽ không chỉ là cấp, hạng chính xác của chuẩn mà còn bao gồm cả độ chính xác của các số hiệu chính đó nữa.
5. Phương pháp hiệu chuẩn
Mỗi phương pháp hiệu chuẩn có độ chính xác, độ tin cậy và phạm vi sử dụng nhất định. Dưới đây giới thiệu một số phương pháp thông dụng.
+ Hiệu chuẩn bằng phương pháp so sánh trực tiếp
Theo phương pháp này ta so sánh trực tiếp vật đọ hoặc phương tiện đo cần hiệu chuẩn với vật đọ hoặc phương tiện đo chuẩn.
Đối với vật đọ, hiêu chuẩn theo phương pháp này nhanh, đơn giản nhưng độ chính xác thấp và cũng chỉ có thể so sánh trực tiếp các vật đọ độ dài (thước vạch, thước cuộn), các vật đọ dung tích (ống đong, bình đong...) với nhau mà thôi.
Đối với phương tiện đo, phương pháp này được dùng rất phổ biến bằng cách do đồng thời cùng một đại lượng bằng phương tiện đo cần hiệu chuẩn và phương tiện đo chuẩn. Điều quan trọng là phải đảm bảo để chúng cùng đo một đại lượng như nhau. Ví dụ khi đặt một số nhiêt kế cần hiệu chuẩn và nhiệt kế chuẩn vào một bình điều nhiệt, nếu nhiệt độ trong bình không đồng nhất, kết quả sẽ không phản ánh đúng chất lượng các nhiệt kế.
+ Hiệu chuẩn vật đọ bằng dụng cụ so sánh
Nội dung của phương pháp này là so sánh vật đọ cần hiệu chuẩn với vật đọ chuẩn thông qua môt dụng cu so sánh.
Trong lĩnh vực đo khối lượng dụng cụ so sánh được dùng phổ biển là các loại cân chuẩn (để kiểm định các quả cân); trong lĩnh vực đo điện đó là các cầu đo điện một chiều và xoay chiều (để hiệu chuẩn vật đọ điện trở, điện dung, điện cảm...).
Độ chính xác của phương pháp này phụ thuộc vào các đặc trưng đo lường của dung cụ so sánh, trong đó chủ yếu là độ chính xác của vật đọ chuẩn, độ nhạy và độ ổn định của dung cu so sánh. Độ nhạy của dụng cụ so sánh phải đủ để phát hiện được những thay đổi của đại lượng đo nhỏ hơn sai số cho phép của vật đọ chuẩn.
Các phần tử cấu tạo của dụng cụ so sánh như tỷ số giữa hai đòn cân, tỷ số giữa các nhành của cầu điện một chiều, xoay chiều phải đủ ổn định để không ảnh hưởng đến quá trình so sánh các vật đọ với nhau.
+ Hiệu chuẩn phương tiện đo bằng vật đọ chuẩn
Nội dung của phương pháp này là dùng phương tiện đo cần hiệu chuẩn đo đại lượng thể hiện bằng vật đọ chuẩn hoặc đo một đai lượng trung gian sẽ được so sánh với vật đọ chuẩn. Ví dụ hiệu chuẩn thước cặp bằng các tấm căn chuẩn hoặc hiệu chuẩn vonmét bằng máy bù.
Khi hiệu chuẩn bằng phương pháp này nếu vật đọ chuẩn là bộ vật đọ, người ta thường điều chỉnh bộ vật đọ để kim chỉ của phương tiện đo cần hiệu chuẩn dừng lại ở những vạch theo quy định. Ví dụ như hiệu chuẩn ômmét bằng hộp điện chuẩn, giá trị đọc trên hộp điện trở chuẩn là giá trị điện trở thực tế tương ứng với số chỉ của ômmét.
Các phương pháp hiệu chuẩn trên gọi chúng là phương pháp hiệu chuẩn toàn phần. Đối với các phương tiện đo có cấu tạo phức tạp, gồm nhiều bộ phận hợp thành, người ta còn hiệu chuẩn từng phần riêng rẽ. Phương pháp hiệu chuẩn từng phần được sử dụng khi không thể hiệu chuẩn toàn phần hoặc khi cần tìm hiểu các hỏng hóc, sai sót ở từng bộ phận hợp thành.
Khi hiệu chuẩn tuỳ theo mức độ chính xác và sự phức tạp về kỹ thuật của phương tiện đo cũng như các yêu cầu của việc hiệu chuẩn ta phải chọn chuẩn và phương pháp hiệu chuẩn theo các nguyên tắc và đặc điểm đã trình bày ở trên. Thường những vấn đề này đã được hướng dẫn trong các tài liệu, văn bản về phương pháp hiệu chuẩn tương ứng với từng loai phương tiện đo cụ thể.
6. Biên bản hiệu chuẩn
Biên bản hiệu chuẩn là tài liệu ghi lại các số liệu và kết quả trong quá trình hiệu chuẩn. Đây là tài liệu kỹ thuật quan trọng làm cơ sở cho việc đánh giá, phân tích kết quả hiệu chuẩn. Cán bộ hiệu chuẩn phải ghi đầy đủ, rõ ràng và trung thực các số liệu không được tuỳ ý vứt bỏ các số liệu mà mình thấy vô lý. Khi phân tích, xử lý các số liệu có thể không dùng tới các số liệu rõ ràng là không hợp lý so với toàn bộ số liệu thu được, nhưng phải đảm bảo khi cần thiết vẫn có thể đọc lại được.
Thường biên bản hiệu chuẩn ghi lại các nội dung sau:
- Các dấu hiệu của phương tiện đo như: tên, số hiệu, nơi sản xuất, nơi sử dụng...
- Các đặc trưng kỹ thuật và đo lường của phttơng tiện đo;
- Tên và các đặc trưng của chuẩn và các trang thiết bị phụ;
- Điều kiện môi trường tiến hành hiệu chuẩn;
- Kết quả từng lần đo riêng biệt trong quá trình hiệu chuẩn;
- Kết quả xử lý các số liệu;
- Đánh giá cuối cùng về phương tiện đo.
- Nơi và người tiến hành hiệu chuẩn.
Mẫu biên bản hiệu chuẩn thường được trình bày trong các phương pháp hiệu chuẩn ứng với từng loại phương tiện đo cụ thể.
7. Sơ đồ hiệu chuẩn
Sơ đồ hiệu chuẩn trình bày phương tiện, phương pháp và độ chính xác của việc truyền (đơn vị từ chuẩn đến các phương tiện đo. Những sơ đồ này còn được gọi là sơ đồ thứ bậc cho phương tiện đo.
Nội dung sơ đồ thường gồm phần lời và phần vẽ, trong đó chủ yếu là phần vẽ.
Trong phần vẽ, tên chuẩn và phương tiện đo cùng các đặc trưng đo lường của nó (phạm vi đo, cấp hạng chính xác hoặc sai số) được ghi trong khung hình chữ nhật. Tên phương pháp hiệu chuẩn (phương pháp để so sánh chuẩn với phương tiện đo) để trong khung tròn hoăc ôvan. Quan hệ truyền đơn vị giữa các thành phần biểu thị bằng các đường nối.
Theo chiều dọc, phần vẽ được chia thành các khoảng, số các khoảng ứng với số bậc truyền đơn vị, khoảng trên cùng trình bày chuẩn cao nhất, các khoảng sau đó trình bày các bậc chuẩn tiếp theo. Khoảng cuối cùng trình bày theo hàng ngang toàn bộ phương tiện đo theo thứ tự độ chính xác giảm dần từ trái sang phải.

Lợi ích của doanh nghiệp khi áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001:2015

Việc chấp nhận áp dụng hệ thống quản lý chất lượng là một quyết định chiến lược, giúp tổ chức, doanh nghiệp cải tiến, nâng cao năng suất chất lượng.
Các tiêu chuẩn do ISO (Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế - International Organisation for Standardisation) ban hành đều bắt đầu với chữ ISO. Tổ chức này là liên hiệp các Tổ chức tiêu chuẩn quốc gia (gồm 163 thành viên) hoạt động nhằm thúc đẩy sự phát triển sản xuất, thương mại và liên lạc trong các tổ chức kinh doanh trên toàn thế giới thông qua phát triển các tiêu chuẩn chất lượng chung.
ISO 9001 là một hệ thống quản lý chất lượng cơ bản có thể được sử dụng trong mọi ngành nghề với mọi quy mô ở bất cứ nơi đâu trên thế giới. Đạt được chứng nhận ISO 9001 (hoặc các hệ thống quản lý/ tiêu chuẩn khác) cung cấp những bằng chứng khách quan chứng minh được rằng một doanh nghiệp đã triển khai hệ thống quản lý chất lượng hiệu quả và thỏa mãn mọi yêu cầu của tiêu chuẩn đang áp dụng.
Tiêu chuẩn ISO 9001:2015 ra đời đúng thời điểm đáp ứng được các thay đổi to lớn về công nghệ, đa dạng kinh doanh và thương mại toàn cầu. Phiên bản này sẽ trở thành tiêu chuẩn hiệu lực, dễ sử dụng và chuyên sâu về hệ thống quản lý chất lượng.
Có thể nói, việc chấp nhận áp dụng hệ thống quản lý chất lượng là một quyết định chiến lược của tổ chức để có thể cải tiến kết quả hoạt động tổng thể và cung cấp một nền tảng vững chắc cho các sáng kiến phát triển bền vững.
Những lợi ích tiềm năng để tổ chức triển khai một hệ thống quản lý chất lượng dựa trên tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001:2015 này là khả năng để luôn cung cấp sản phẩm và dịch vụ đáp ứng các yêu cầu khách hàng, yêu cầu luật định và chế định thích hợp; tạo điều kiện cho các cơ hội nâng cao sự hài lòng của khách hàn. Giải quyết các rủi ro và cơ hội kết hợp với bối cảnh và mục tiêu của tổ chức; khả năng để chứng minh sự phù hợp với các yêu cầu hệ thống quản lý chất lượng cụ thể.
Tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001: 2015 có thể được sử dụng bởi các bên nội bộ và bên ngoài.

Thứ Hai, 22 tháng 5, 2017

Từ 1/6/2017 quy định về nhãn đối với hàng hoá sẽ thay đổi như nào?

Mới đây, Chính phủ vừa ban hành Nghị định 43/2017/NĐ-CP quy định nội dung, cách ghi và quản lý nhà nước về nhãn đối với hàng hoá lưu thông tại Việt Nam và hàng hoá nhập khẩu.

Các quy định trong Nghị định 43/2017/NĐ-CP áp dụng đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá tại Việt Nam; tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hoá; cơ quan nhà nước; tổ chức, cá nhân có liên quan. Chứng nhận ISO 9001
Tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm ghi nhãn hàng hóa kể cả nhãn phụ phải bảo đảm ghi nhãn trung thực, rõ ràng, chính xác, phản ánh đúng bản chất của hàng hoá.
Hàng hoá sản xuất để lưu thông trong nước thì tổ chức, cá nhân sản xuất phải chịu trách nhiệm thực hiện ghi nhãn hàng hoá. Trong trường hợp tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm ghi nhãn hàng hóa yêu cầu tổ chức, cá nhân khác thực hiện việc ghi nhãn thì tổ chức, cá nhân đó vẫn phải chịu trách nhiệm về nhãn hàng hoá của mình. Chứng nhận ISO 14001
Trong trường hợp hàng hoá xuất khẩu không xuất khẩu được hoặc bị trả lại, đưa ra lưu thông trên thị trường thì tổ chức, cá nhân đưa hàng hóa ra lưu thông phải ghi nhãn theo quy định.
Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam mà nhãn gốc không phù hợp với quy định của nghị định này thì tổ chức, cá nhân nhập khẩu phải ghi nhãn phụ theo quy định khi đưa ra lưu thông và phải giữ nguyên nhãn gốc.
Cũng theo quy định trên, tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm ghi nhãn hàng hoá tự xác định kích thước của nhãn hàng hóa, kích thước chữ và số thể hiện trên nhãn hàng hóa nhưng phải bảo đảm yêu cầu: Ghi được đầy đủ nội dung bắt buộc theo quy định; kích thước của chữ và số phải bảo đảm đủ để đọc bằng mắt thường và đáp ứng các yêu cầu.
Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam mà trên nhãn chưa thể hiện hoặc thể hiện chưa đủ những nội dung bắt buộc bằng tiếng Việt thì phải có nhãn phụ thể hiện những nội dung bắt buộc bằng tiếng Việt và giữ nguyên nhãn gốc của hàng hoá.
Đối với hàng hóa không xuất khẩu được hoặc bị trả lại, đưa ra lưu thông trên thị trường phải có nhãn phụ.
Những hàng hóa không phải ghi nhãn phụ gồm: Linh kiện nhập khẩu để thay thế các linh kiện bị hỏng trong dịch vụ bảo hành hàng hóa của tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm đối với hàng hóa đó, không bán ra thị trường; nguyên liệu, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, linh kiện nhập khẩu về để sản xuất, không bán ra thị trường.
Nghị định 43/2017/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 1/6/2017. Theo đó, Nghị định số 89/2006/NĐ-CP về nhãn hàng hoá sẽ hết hiệu lực thi hành.

Soát xét tiêu chuẩn về nông nghiệp hữu cơ

Năm 2015, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố TCVN 11041:2015 Hướng dẫn sản xuất, chế biến, ghi nhãn và tiếp thị thực phẩm được sản xuất theo phương pháp hữu cơ, tiêu chuẩn này hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế CODEX. Chứng nhận VietGAP

Theo TCVN 11041:2015, “hữu cơ” là thuật ngữ ghi trên nhãn biểu thị các sản phẩm được sản xuất phù hợp với tiêu chuẩn sản xuất theo phương pháp hữu cơ, đã được chứng nhận bởi tổ chức chứng nhận. Nông nghiệp hữu cơ dựa trên cơ sở giảm thiểu sử dụng vật tư đầu vào từ bên ngoài, tránh việc dùng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật tổng hợp.
Do tình trạng ô nhiễm môi trường nói chung, nên thực hành nông nghiệp hữu cơ không thể bảo đảm các sản phẩm sản xuất ra hoàn toàn không tồn tại dư lượng thuốc bảo vệ thực vật nhưng phương pháp hữu cơ được sử dụng để giảm thiểu ô nhiễm không khí, đất và nước. Những người xử lý, chế biến, bán lẻ thực phẩm hữu cơ phải tuân thủ các tiêu chuẩn nhằm giữ nguyên chất lượng của các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.
TCVN 11041:2015 nêu ra các nguyên tắc đối với sản xuất và chế biến sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, nêu yêu cầu đối với các chất được phép sử dụng để sản xuất thực phẩm hữu cơ, việc ghi nhãn và công bố sản phẩm hữu cơ, yêu cầu đối với hệ thống kiểm tra và chứng nhận.
Tuy nhiên, TCVN 11041:2015 chỉ là tiêu chuẩn khung nên trong quá trình áp dụng thực hiện cũng nảy sinh một số bất cập như một số nội dung của tiêu chuẩn chưa dễ hiểu, dễ nắm bắt và chưa tạo thuận lợi cho hoạt động chứng nhận.
Theo bà Ngô Thị Ngọc Hà - Phó Viện trưởng Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam, trong năm 2017, Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam sẽ tổ chức soát xét sửa đổi TCVN 11041:2015 để đảm bảo các thuật ngữ, văn phong sử dụng, các nội dung hướng dẫn thực hiện dễ hiểu, dễ nắm bắt hơn đối với người sử dụng tiêu chuẩn trong thực tiễn, đồng thời tổ chức xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia về yêu cầu cụ thể đối với sản xuất, chế biến, ghi nhãn sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi hữu cơ.
"Trong các năm tiếp theo, cũng cần tiếp tục xem xét, tổ chức xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia đối với một số sản phẩm hữu cơ đặc thù, có tiềm năm tiêu thụ và xuất khẩu lớn như gạo, cà phê, tôm... với mục tiêu phát triển sản phẩm nông nghiệp mang thương hiệu quốc gia", bà Hà cho biết.
Được biết, Ủy ban Tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế (CAC) đã ban hành tiêu chuẩn hướng dẫn sản xuất, chế biến, ghi nhãn và tiếp thị thực phẩm được sản xuất theo phương pháp hữu cơ. ). Một số tổ chức ban hành tiêu chuẩn riêng, ví dụ tiêu chuẩn về sản xuất và chế biến hữu cơ của Liên đoàn quốc tế các phong trào nông nghiệp hữu cơ (IFOAM), tiêu chuẩn về rau quả hữu cơ của Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD).
Các tiêu chuẩn/quy định của khu vực gồm có tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ của ASEAN, quy định về sản xuất hữu cơ và ghi nhãn các sản phẩm hữu cơ. http://vietcert.org/chung-nhan-vietgap-trong-trot/f7040000
Nhiều quốc gia cũng đã ban hành tiêu chuẩn/quy định về nông nghiệp hữu cơ. Tất cả đều nhằm mục đích bảo vệ người tiêu dùng tránh bị lừa dối và gian lận trên thị trường và việc công bố sản phẩm vô căn cứ, bảo vệ các sản phẩm hữu cơ không bị hiểu sai là các sản phẩm nông nghiệp khác.

ISO 9001:2015 và ISO 9001:2008 khác nhau như thế nào?

(VietQ.vn) - Cả hai tiêu chuẩn ISO 9001:2015ISO 9001:2008 bao gồm các chủ đề tương tự. Tuy nhiên, có một số khác biệt quan trọng. Có lẽ sự khác biệt lớn nhất giữa tiêu chuẩn cũ và mới là cấu trúc. ISO 9001:2008 có năm phần chính (4-8) và ISO 9001:2015 nay đã có bảy (4-10) vì phiên bản mới sử dụng định dạng Phụ lục SL mới. Theo ISO, tất cả các tiêu chuẩn hệ thống quản lý trong tương lai (MSS) sẽ sử dụng cách sắp xếp mới này và có các yêu cầu cơ bản giống nhau. Kết quả là, tất cả MSS mới sẽ có cùng một cách nhìn và cảm nhận cơ bản.
Trung tâm VietCert đẩy mạnh các hoạt động đánh giá và đào tạo các hệ thống quản lý chất lượng cho DN Các Hệ thống quản lý có cùng cấu trúc chung có thể vì các khái niệm cơ bản như: quản lý, khách hàng, yêu cầu, chính sách, thủ tục, hoạch định, thực hiện, mục tiêu, kiểm soát, theo dõi, đo lường, đánh giá, ra quyết định, hành động khắc phục và sự không phù hợp là phổ biến cho tất cả các tiêu chuẩn hệ thống quản lý. Không giống như tiêu chuẩn cũ, tiêu chuẩn mới mong muốn tổ chức hiểu bối cảnh của tổ chức trước khi tổ chức thiết lập Hệ thống quản lý chất lượng (QMS). Khi ISO 9001:2015 yêu cầu tổ chức hiểu bối cảnh của tổ chức, tiêu chuẩn muốn tổ chức xem xét các vấn đề bên ngoài và bên trong có liên quan đến mục đích, định hướng chiến lược và suy nghĩ về ảnh hưởng mà các vấn đề này có thể có đối với QMS và kết quả tổ chức dự định đạt được. Điều này có nghĩa là tổ chức cần phải hiểu môi trường bên ngoài, văn hóa, giá trị, kết quả thực hiện và các bên liên quan của tổ chức trước khi triển khai QMS. Tại sao? Bởi vì QMS của tổ chức sẽ cần để có thể quản lý tất cả những ảnh hưởng này. Khi tổ chức hiểu được tất cả những điều trên, tổ chức dự kiến ​​sẽ sử dụng hiểu biết sâu sắc đó để xác định phạm vi của QMS và những thách thức phải đối phó. Trong khi những hiểu biết chắc chắn sẽ giúp các tổ chức phát triển được QMS độc đáo để giải quyết nhu cầu và yêu cầu riêng, thì việc thực hiện tất cả những điều này có thể là một thách thức đáng kể đối với một vài tổ chức. Tiêu chuẩn ISO 9001:2015 cũng đã loại bỏ cách phân biệt tồn tại rất lâu giữa tài liệu và hồ sơ. Bây giờ chúng được gọi chung là (thông tin dạng văn bản). Tại sao ISO chọn loại bỏ hai khái niệm có ý nghĩa phổ biến và thay thế chúng bằng một khái niệm gây lúng túng không cần thiết và hoàn toàn không rõ ràng? Theo định nghĩa của ISO, thuật ngữ “thông tin dạng văn bản” đề cập đến thông tin phải được kiểm soát và duy trì. Vì vậy, bất cứ khi nào ISO 9001:2015 sử dụng cụm từ “thông tin dạng văn bản”, ngụ ý là tổ chức kiểm soát và duy trì thông tin và các phương tiện hỗ trợ thông tin. Tuy nhiên, đây không phải là toàn bộ câu chuyện. Phụ lục trong tiêu chuẩn mới (A.6) còn thêm (nơi nào trong ISO 9001:2008 đề cập đến thủ tục bằng văn bản...điều này bây giờ được thể hiện như là một yêu cầu duy trì tài liệu bằng văn bản và nơi nào trong ISO 9001:2008 gọi là hồ sơ, bây giờ được thể hiện như một yêu cầu lưu giữ thông tin bằng văn bản). Vì vậy, bất cứ khi nào tiêu chuẩn mới đề cập đến thông tin dạng văn bản và tiêu chuẩn yêu cầu tổ chức duy trì thông tin này, có nghĩa là tiêu chuẩn đang nói về những gì thường được gọi là thủ tục và bất cứ khi nào tiêu chuẩn yêu cầu tổ chức lưu giữ thông tin này, có nghĩa là tiêu chuẩn nói về những gì thường được gọi là hồ sơ. Vì vậy, đôi khi thông tin phải được duy trì và đôi khi thông tin phải được lưu giữ (trái với những gì định nghĩa chính thức nói). Do đó, trong khi các định nghĩa của thuật ngữ (tài liệu dạng văn bản) loại bỏ sự phân biệt giữa các tài liệu (hoặc thủ tục bằng văn bản) và các hồ sơ, thì thông qua việc sử dụng các từ (duy trì) và (lưu giữ) và điều này có nghĩa (theo Phụ lục A) các phần chính của tiêu chuẩn thực sự phục hồi sự phân biệt này. Nói cách khác, trong khi các tài liệu và hồ sơ đã bị loại bỏ khỏi cửa trước, chúng đã thực sự được phép trở lại qua cửa sau. Theo tiêu chuẩn mới, (suy nghĩ dựa trên rủi ro luôn được ngầm định trong ISO 9001). Theo quan điểm này, ISO 9001 đã luôn luôn dự đoán và ngăn ngừa những sai lỗi thông qua suy nghĩ dựa trên rủi ro. Đó là lý do tại sao chúng ta đào tạo nhân viên, tại sao chúng ta lập kế hoạch làm việc, tại sao chúng ta phân công vai trò và trách nhiệm, tại sao chúng ta xác nhận và xác nhận giá trị sử dụng của các kết quả, tại sao chúng ta đánh giá và xem xét các hoạt động và lý do tại sao chúng ta theo dõi, đo lường và kiểm soát các quá trình. Chúng ta làm những việc này bởi vì chúng ta muốn ngăn ngừa những sai lỗi. Chúng ta làm bởi vì chúng ta cố gắng để quản lý rủi ro. Vì vậy, nếu chúng ta nghĩ về tư duy dựa trên rủi ro theo cách này, tư duy này luôn luôn là một phần đã có của ISO 9001. Trước đây cách tư duy này là tiềm ẩn; bây giờ là rõ ràng. Vì vậy, cách tư duy “suy nghĩ dựa trên rủi ro” là gì và làm thế nào để áp dụng? Tiêu chuẩn mới mong muốn các tổ chức làm gì? Tiêu chuẩn mới mong muốn ​​tổ chức xác định và giải quyết các rủi ro mà có thể ảnh hưởng đến khả năng cung cấp các sản phẩm, dịch vụ phù hợp và đáp ứng khách hàng. Tiêu chuẩn mới mong muốn tổ chức xác định và giải quyết các cơ hội có thể nâng cao khả năng cung cấp sản phẩm và dịch vụ phù hợp và đáp ứng khách hàng. Tiêu chuẩn ISO mới cũng mong muốn tổ chức xác định rủi ro và cơ hội có thể ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của QMS hoặc làm gián đoạn hoạt động của họ và cũng mong muốn tổ chức xác định các hành động để hướng đến những rủi ro và cơ hội này. Tiếp theo, tiêu chuẩn cũng mong muốn tổ chức phác thảo cách thức tổ chức đưa các hành động này thành một phần của các quá trình trong QMS và cách thức tổ chức áp dụng, kiểm soát, đánh giá và xem xét tính hiệu quả của các hành động và các quá trình này. Trong khi “suy nghĩ dựa trên rủi ro” hiện nay là một phần thiết yếu của tiêu chuẩn mới, tiêu chuẩn không thực sự mong đợi tổ chức thực hiện quá trình quản lý rủi ro một cách hình thức cũng không mong đợi tổ chức chỉ lập tài liệu phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro. Mục 1.2 của tiêu chuẩn ISO 9001:2008 nói rằng Tổ chức có thể ngoại lệ hoặc bỏ qua các yêu cầu hình thành sản phẩm (phần 7) nếu tổ chức không thể áp dụng và nếu làm như vậy không ảnh hưởng đến khả năng hay trách nhiệm đáp ứng các yêu cầu pháp luật và khách hàng. Tiêu chuẩn mới có một cách tiếp cận tương tự, nhưng thay vào đó, dường như áp dụng tư duy này cho tất cả các yêu cầu. Mục 4.3 của tiêu chuẩn ISO 9001:2015 cho biết (Khi một yêu cầu của Tiêu chuẩn trong phạm vi được xác định có thể được áp dụng, thì yêu cầu đó sẽ được áp dụng đối với tổ chức). Vì vậy, một khi tổ chức đã xác định phạm vi QMS của tổ chức, ISO 9001:2015 nói rằng mỗi yêu cầu phải được áp dụng trong phạm vi ranh giới được xác định theo tuyên bố phạm vi của tổ chức. Tuy nhiên, khi tiêu chuẩn ISO 9001:2015 nói rằng mỗi yêu cầu phải được áp dụng, mục 4.3 và Phụ lục A5 cũng nói rằng bất kỳ yêu cầu có thể được loại trừ nếu nó không thể được áp dụng. Nếu tổ chức có thể cân nhắc và giải thích lý do tại sao các yêu cầu đó không thể áp dụng và nếu việc loại trừ nó không làm suy yếu khả năng hay trách nhiệm của tổ chức để đảm bảo rằng sản phẩm và dịch vụ phù hợp. Định nghĩa của thuật ngữ (đối tượng) là mới. Sự ra đời của thuật ngữ (đối tượng) có nghĩa là những gì có thể nhận biết, cảm nhận được và việc sử dụng nó trong các định nghĩa khác nhau (chất lượng, thiết kế và phát triển, đổi mới, xem xét, truy xuất nguồn gốc) dường như cho thấy rằng tiêu chuẩn ISO 9001 mới có thể được áp dụng cho bất kỳ đối tượng nào. Về mặt lý thuyết, ít nhất, điều này mở rộng đáng kể phạm vi của tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn ISO 9000:2005 gọi (sản phẩm) thì tiêu chuẩn mới gọi là (đầu ra). Hai định nghĩa đều giống nhau. Thuật ngữ (đầu ra) đã không được định nghĩa trong tiêu chuẩn 2005. Sự thay đổi thuật ngữ này cho thấy rằng cách tiếp cận quá trình bây giờ thậm chí còn tập trung hơn trong tiêu chuẩn mới. Tiếp tục những điều phức tạp, các định nghĩa cũ về (sản phẩm) được chia thành ba định nghĩa riêng biệt đầu ra, sản phẩm và dịch vụ. (Đầu ra) là khái niệm chung trong khi cả hai thuật ngữ (sản phẩm) và (dịch vụ) bây giờ được xem là (đầu ra). Trong khi các thay đổi nói trên có thể là những thay đổi quan trọng nhất, tiêu chuẩn mới cũng đã làm rõ một số khái niệm và sửa đổi một số khác. Một số thay đổi được liệt kê dưới đây: Tiêu chuẩn cũ nói rằng một (dịch vụ) là một dạng (sản phẩm). Bây giờ, cụm từ (các sản phẩm và dịch vụ) được sử dụng trong suốt tiêu chuẩn mới và thuật ngữ (dịch vụ) đã có được định nghĩa riêng của nó. Điều này giúp làm rõ rằng tiêu chuẩn ISO 9001:2015 không chỉ áp dụng các nhà sản xuất mà còn cho tất cả các loại hình của các nhà cung cấp dịch vụ. Những gì thường được gọi là (tài sản của khách hàng) đã được sửa đổi và mở rộng rất nhiều bao gồm các sản phẩm, dịch vụ và các quá trình thuộc tất cả các loại hình của các nhà cung cấp bên ngoài (bao gồm cả khách hàng). Tiêu chuẩn mới mong muốn tổ chức kiểm soát các sản phẩm và dịch vụ cung cấp bên ngoài nếu chúng bao gồm trong các sản phẩm hoặc dịch vụ của tổ chức hoặc chúng được cung cấp trực tiếp cho khách hàng. Các định nghĩa cũ (cải tiến liên tục) đã thay đổi. ISO 9001:2008 yêu cầu tổ chức thực hiện những cải tiến liên tục có nghĩa tiêu chuẩn đã yêu cầu tổ chức cải tiến khả năng để thực hiện yêu cầu. Bây giờ, theo ISO 9001:2015 điều đó có nghĩa là nâng cao hiệu quả (nhận được kết quả tốt hơn). Đây là một thay đổi quan trọng. Theo tiêu chuẩn mới, các tổ chức phải xác định, tiếp thu và chia sẻ các (kiến thức) mà nhân viên cần để hỗ trợ cho hoạt động của các quá trình và đạt được sự phù hợp của sản phẩm, dịch vụ. Các khái niệm cũ về (tạo sản phẩm) đã biến mất. Hầu hết các yêu cầu trong phần hình thành sản phẩm cũ đã được sửa đổi và chuyển sang tiêu chuẩn ISO 9001:2015 thành “Hoạt động” Thuật ngữ (đại diện lãnh đạo) đã được giảm nhẹ. Nhiệm vụ và trách nhiệm quản lý mà trước đây giao cho một người nào đó gọi là (đại diện lãnh đạo) thì nay có thể được giao cho một người hoặc nhiều người. (Hành động phòng ngừa) cũng đã biến mất. Nó được thay thế bằng cụm từ (suy nghĩ dựa trên rủi ro). Rõ ràng, cả hai cách tiếp cận cũ và mới đều cố để đạt được điều tương tự. Cả hai đều cố gắng ngăn ngừa các vấn đề trong tương lai. Một khi tổ chức đưa vào “suy nghĩ dựa trên rủi ro”, tổ chức không còn cần một điều khoản riêng về hành động phòng ngừa nữa, vì điều khoản này sẽ thừa. Trong khi tiêu chuẩn cũ yêu cầu tổ chức sử dụng (Thiết bị) theo dõi và đo lường, thì tiêu chuẩn mới đề cập đến (Nguồn lực) theo dõi và đo lường. Đây là một cách tiếp cận linh hoạt hơn để theo dõi và đo lường vì tiêu chuẩn thừa nhận một thực tế rằng các hoạt động này thường có thể được thực hiện mà có thể không sử dụng các thiết bị.

Thứ Năm, 18 tháng 5, 2017

Hướng dẫn áp dụng TCVN ISO 9001:2015, TCVN ISO 14001:2015 và tiêu chuẩn liên quan


Ngày 31/12/2015, Bộ Khoa học và Công nghệ đã công bố tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2015TCVN ISO 14001:2015. Các tiêu chuẩn này được chấp nhận và hoàn toàn tương đương với tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001:2015 và ISO 14001:2015. Để đảm bảo ổn định hoạt động sản xuất, kinh doanh và tạo thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức đã và đang áp dụng TCVN ISO 9001:2008 và TCVN ISO 14001:2010, trên cơ sở tham khảo Hướng dẫn chung về việc chuyển đổi áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001:2015 và ISO 14001:2015 của Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO và Diễn đàn công nhận quốc tế (IAF), Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn như sau:
Các tổ chức, cá nhân doanh nghiệp được phép tiếp tục áp dụng tự nguyện tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 đến thời hạn là 30/9/2018 và TCVN ISO 14001:2010 đến 14/9/2018. Ngoài ra khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp chuyển đổi áp dụng TCVN ISO 9001:2015 và TCVN ISO 14001:2015 nếu có nhu cầu và đáp ứng đủ các điều kiện cần thiết.
Đối với các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước thì việc áp dụng phiên bản phù hợp với TCVN ISO 9001 được thực hiện theo Quyết định 19/2014/QĐ-TTg ngày 5/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ.

Các bước xây dựng và áp dụng ISO 14001:2015 và chuyển đổi sang phiên bản ISO 14001:2015


Tiêu chuẩn ISO 14001 hướng tới mọi loại hình tổ chức, DN có mong muốn thực hiện hoặc cải tiến HTQLMT của mình. Đối với các công ty hoạt động trong lĩnh vực CNHT, lĩnh vực trực tiếp sản xuất, yêu cầu về áp dụng ISO 14001 có thể xuất phát từ phía thị trường, khách hàng, nhà cung cấp hoặc từ chính nội tại DN. Các bước chính để xây dưng và áp dụng ISO 14001:2015 tại doanh nghiệp gồm 6 bước chính:
Bước 1: Chuẩn bị và lập kế hoạch tiến hành dự án
  • Nghiên cứu, tìm hiểu cụ thể về ISO 14001:2015
  • Thành lập ban chỉ đạo dự án ISO 14001:2015. Thành viên ban chỉ đạo phải có các kiến thức cơ bản về môi trường và HTQLMT theo ISO 14001:2015. Bổ nhiệm đại diện lãnh đạo về môi trường.
  • Phân tích bối cảnh DN, các vấn đề nội bộ và bên ngoài DN, những bên liên quan, những ảnh hưởng đến môi trường. So sánh với các điều khoản luật hiện hành và những yêu cầu khác có liên quan
  • Thực hiện đánh giá ban đầu về môi trường.
  • Lập kế hoach cụ thể và phân công cán bộ chuyên trách từng phần công việc cụ thể cho việc xây dựng HTQLMT.
  • Tổ chức đào tạo về ISO 14001:2015 cho cán bộ, nhân viên trong DN, đặc biệt là nhóm thực hiện dự án và các cán bộ lãnh đạo.
Bước 2: Xây dựng và lập văn bản hệ thống quản lý môi trường
  • Xây dựng chính sách môi trường và cam kết của lãnh đạo, tuyên bố cam kết này với toàn thể cán bộ, nhân viên trong công ty.
  • Thiết lập mục tiêu, chỉ tiêu và chương trình quản lý môi trường nhằm đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra. Chương trình cần mô tả cách thức tổ chức sẽ đạt được các mục tiêu của mình, bao gồm cả thời gian, các nguồn lực cần thiết và người chịu trách nhiệm thực hiện.
Bước 3: Thực hiện và theo dõi hệ thống quản lý môi trường
  • Ðảm bảo về nhận thức và thông tin liên lạc cho mọi thành viên trong tổ chức để thực hiện hệ thống quản lý môi trường một cách hiệu quả.
  • Theo dõi và kiểm tra việc thực hiện HTQLMT, thực hiện các hành động cần thiết nhằm đảm bảo sự phù hợp với các yêu cầu của tiêu chuẩn, các chương trình về môi trường, các qui trình và sổ tay quản lý môi trường.
  • Sử dụng các kỹ thuật năng suất xanh như các công cụ hỗ trợ nâng cao hiệu quả hoạt động môi trường.
Bước 4: Ðánh giá nội bộ và xem xét
  • Trang bị kiến thức về đánh giá nội bộ HTQLMT cho lãnh đạo và các cán bộ chủ chốt của công ty.
  • Thiết lập hệ thống đánh giá nội bộ và hệ thống xem xét của lãnh đạo.
  • Thực hiện chương trình đánh giá HTQLMT nội bộ theo các yêu cầu của tiêu chuẩn ISO 14001:2015.
  • Báo cáo kết quả của đợt đánh giá trên lên lãnh đạo để xem xét, thực hiện các hành động khắc phục.
  • Lựa chọn cơ quan chứng nhận phù hợp và xin đăng ký chứng nhận. Tổ chức tiến hành đánh giá trước chứng nhận nếu thấy cần thiết.
  • Chuẩn bị cho cơ quan chứng nhận tiến hành đánh giá hệ thống văn bản và đánh giá thực trạng của tổ chức. Xem xét kết quả đánh giá ban đầu của cơ quan chứng nhận và thi hành các biện pháp khắc phục đối với những điểm không phù hợp.
Bước 6: Duy trì chứng chỉ
  • Thực hiện đánh giá nội bộ.
  • Thực hiện các hành động khắc phục.
  • Thực hiện đánh giá giám sát.
  • Không ngừng duy trì, cải tiến liên tục hệ thống và chịu sự giám sát định kỳ của tổ chức chứng nhận.
Chuyển đổi sang phiên bản ISO 14001:2015
Các tổ chức đã và đang áp dụng tiêu chuẩn ISO 14001:2004 cần lưu ý thực hiện những hoạt động sau để chuyển đổi cập nhật lên ISO 14001:2015:
  • Đánh giá HTQLMT đang áp dụng theo phiên bản ISO 14001:2015 để xác định những điểm chưa phù hợp. Xây dựng kế hoạch chuyển đổi.
  • Tổ chức đào tạo cho nhân viên và các bên liên quan về HTQLMT theo phiên bản ISO 14001:2015.
  • Cập nhật, xây dựng các văn bản cần thiết để đáp ứng các yêu cầu của tiêu chuẩn sửa đổi.
  • Xác nhận hiệu lực của hệ thống quản lý thông qua các hoạt động như đánh giá nội bộ và xem xét của lãnh đạo.
  • Đăng ký đánh giá chứng nhận (trong lần đánh giá giám sát, đánh giá tái chứng nhận, hoặc cuộc đánh giá riêng).
Trung tâm Giám định và Chứng nhận Hợp chuẩn Hợp quy VietCert là đơn vị được Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng cấp phép hoạt động trong lĩnh vực chứng nhận ISO 9001, ISO 14001, ISO 22000, HACCP ....
http://vietcert.org/

Thứ Năm, 11 tháng 5, 2017

Bạn có biết: Michelin – trọng tài của ngành ẩm thực thế giới thực chất bán… lốp xe ô tô

Bạn có biết: Michelin – trọng tài của ngành ẩm thực thế giới thực chất bán… lốp xe ô tô ISO 14001

Chắc hẳn nhiều người biết rằng sao Michelin với giới ẩm thực cũng danh giá không khác gì được tượng vàng Oscar trong ngành điện ảnh. Thế nhưng, Michelin không phải chuỗi nhà hàng hay dịch vụ ẩm thực mà thực chất là một công ty bán… lốp xe ô tô. Chứng nhận ISO 14001
Từ lốp ô tô tới ẩm thực
Sao Michelin được nhiều người biết đến là danh hiệu đảm bảo chất lượng cho các nhà hàng được đánh giá bởi các chuyên gia ẩm thực hàng đầu thế giới. Vậy nhưng, nguồn gốc của danh hiệu cao quý này lại không phải bắt nguồn từ một nhà hàng lâu đời hay một đầu bếp nổi tiếng như nhiều người vẫn nghĩ. Sao Michelin thực chất được bắt nguồn từ một… chiêu PR xuất sắc của công ty lốp xe Michelin tại Pháp.
Hơn một thế kỷ trước, hãng đã lập ra một catalogue để chấm điểm các nhà hàng và khách sạn trên khắp nước Pháp sau đó phát miễn phí cho khách hàng của mình. Tò mò với những lời quảng cáo hấp dẫn về các địa điểm này, khách hàng của Michelin đã sẵn sàng lái xe tới các nhà hàng đó để thử đồ ăn – một thứ luôn luôn có sức lôi cuốn với mọi người. Và tất nhiên, khách hàng càng lái xe nhiều thì bánh xe lăn cũng nhiều, lốp hỏng nhanh hơn, dẫn đến mục đích cuối cùng là Michelin bán được nhiều lốp xe hơn.
Trong lĩnh vực “chính thức” của mình, Michelin cũng là một tên tuổi khổng lồ. Dưới sự sáng lập của hai anh em Édouard và André Michelin vào năm 1889, công ty của Pháp này đã trở thành một trong những tập đoàn sản xuất lốp xe lớn nhất thế giới ngày nay. Doanh thu của hãng ước tính đạt đến con số hàng chục tỷ euro mỗi năm.
Việc đánh giá nhà hàng Michelin đến nay vẫn không hề mang lại lợi nhuận trực tiếp cho tập đoàn Michelin nhưng nó là một công cụ xây dựng, quảng bá tên tuổi vô cùng đặc biệt, mang lại hào quang thương hiệu cho một sản phẩm không quá quyến rũ như lốp xe. Có lẽ những người sáng tạo ra ý tưởng marketing này ban đầu cũng không thể lường được sự phát triển bất ngờ của The Michelin Guide đã trở thành “kinh thánh” của tín đồ ẩm thực khắp thế giới cho đến hàng trăm năm sau như thế.
Bên cạnh sản xuất lốp xe, công ty này còn… đánh giá các nhà hàngBên cạnh sản xuất lốp xe, công ty này còn… đánh giá các nhà hàng
Sao Michelin được trao như thế nào?
Việc trao sao Michelin tuân theo những nguyên tắc chặt chẽ về chất lượng món ăn, kỹ thuật chế biến, phong cách ẩm thực… Cuốn cẩm nang The Michelin Guide ra mắt lần đầu năm 1900 định nghĩa một sao có nghĩa là “nhà hàng tốt”, hai sao là “công thức nấu ăn tốt và phá cách” và ba sao là đạt chuẩn “chất lượng hoàn hảo tuyệt vời”.
Việc được trao sao Michelin thực sự là vinh hạnh gần như cao nhất đối với các nhà hàng vì chúng đem lại tiếng tăm, uy tín và kéo theo lượng khách hàng cực lớn. Thế nhưng người ta cũng từng ghi nhận có một số nhà hàng đã phải “xin” Michelin tước bỏ sao của mình vì chúng khiến khách hàng quá trông đợi vào chất lượng món ăn làm cho những đầu bếp bị áp lực nặng nề. Vậy mới thấy “sức mạnh” kinh khủng mà sao Michelin đem lại là như thế nào!
Quy trình để đánh giá một nhà hàng có xứng đáng nhận được sao Michelin không cũng rất thú vị. Nhân viên đánh giá làm việc cho Michelin cũng phải “ẩn mình” tương tự như các FBI, thậm chí những người thân thiết cũng không biết công việc của họ. Lý do là vì các nhân viên này tuyệt đối không được phép để cho nhà hàng mình đến thử biết họ đang được người của Michelin đang kiểm tra chất lượng món ăn, để có thể được phục vụ và đánh giá một cách khách quan nhất.
Hiển nhiên, làm nhân viên đánh giá ẩm thực cho Michelin hoàn toàn không phải “việc nhẹ lương cao” chỉ việc đi ăn ngon miễn phí và chấm điểm. Để nhận được công việc này họ phải là những người cực kỳ hiểu biết về ẩm thực, có vị giác tinh tế, sành ăn hàng đầu.
Gọi là "sao" nhưng hình ảnh thực tế của Michelin trông giống…bông hoa hơnGọi là “sao” nhưng hình ảnh thực tế của Michelin trông giống…bông hoa hơn
"Nam thần" của chương trình Masterchef Mỹ, đầu bếp nổi tiếng Gordon Ramsay là chủ của các nhà hàng có tổng cộng 14 sao Michelin. Trước đây con số này là 15, và khi bị mất một sao Gordon chia sẻ không khác gì mất người yêu – và có khi còn đau khổ hơn thế!“Nam thần” của chương trình Masterchef Mỹ, đầu bếp nổi tiếng Gordon Ramsay là chủ của các nhà hàng có tổng cộng 14 sao Michelin. Trước đây con số này là 15, và khi bị mất một sao Gordon chia sẻ không khác gì mất người yêu – và có khi còn đau khổ hơn thế!
Trường hợp những doanh nghiệp “trái khoáy” như Michelin – vừa là công ty lốp xe vừa là danh hiệu ẩm thực uy tín thế giới quả thực không có nhiều. Thế nhưng, dù sao “trên đời này chuyện quái gì cũng xảy ra được” mà!

Hoạt động đánh giá chứng nhận VietGAP trồng trọt của VietCert

Tổ chức chứng nhận VietGAP trồng trọt được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ định
Hình ảnh đánh giá chứng nhận VietGAP trồng trọt của VietCert